Note: Chào mừng bạn đến với Thư Viện Mở. Hãy Đăng ký thành viên hoặc Đăng nhập để có thể tham gia cùng Thư Viện Mở nhé !

You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

biology
biology
  • Thành Viên

Trần Đức Thảo và cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức

(Lời giới thiệu của TS. Đỗ Lai Thúy)


Trần Đức Thảo và cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức Gsthao01
GS. Trần Đức Thảo (1917 - 1993)

Nếu hỏi một bạn đọc Trần Đức Thảo là ai, hẳn anh ta lập tức nói là
một trong những nhà triết học của Việt Nam và (với đôi chút ngần ngừ)
của cả thế giới nữa. Nếu hỏi tiếp ông ta đã viết những gì, và nhất là
viết như thế nào, anh ta sẽ rất lúng túng, nhưng lại có thể kể ra được
một loạt giai - huyền thoại xung quanh tác phẩm của ông. Có tình trạng
đó là vì, một phần đa số tác phẩm của Trần Đức Thảo viết bằng tiếng
Pháp, phần khác độc giả ta thường vẫn tự bằng lòng với những hiểu biết
đại khái của mình. Trình độ học thuật hiện nay không còn cho phép bạn
đọc, nhất là các nhà nghiên cứu, làm việc với những hiểu biết truyền
khẩu mà còn phải đọc tư liệu gốc. Hơn nữa, trong việc kiểm kê di sản để
tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc hôm nay, nhất là di sản triết học, tôi nghĩ
không thể bỏ qua những trang viết của Trần Đức Thảo được. Một di sản
muốn có tác dụng phải phục sinh nó vào đời sống đương đại. Bởi vậy, tôi
cho rằng việc dịch cuốn Recherches sur l’origine du langage et de la
conscience (Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức), tác phẩm quan trọng
nhất của ông, là một việc làm rất có ý nghĩa.

Trần Đức Thảo sinh ngày 26-09-1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh
Hà Bắc, trong một gia đình viên chức nhỏ. Năm 1935, sau khi đỗ tú tài
vào loại xuất sắc, ông theo học trường Luật tại Hà Nội. Năm 1936, ông
sang Pháp học để chuẩn bị thi vào Ecole Normale Supérieure de la Rue
d’Ulm (Trường Đại học Sư phạm phố d’Ulm). Đây là một trong những trường
nổi tiếng của Pháp, chỉ tuyển dụng những người xuất sắc nhất của đất
nước. Có thể nói, đó là một thứ “siêu đại học”. Bởi vậy nhiều học giả,
nhà nghiên cứu, sau khi tốt nghiệp trường này, đã có học vị tiến sĩ,
nhưng khi viết sách vẫn không quên chua thêm vào là “cựu sinh viên” của
trường Đại học Sư phạm. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi vào trường đỗ cao,
và đến năm 1943 tốt nghiệp thủ khoa, nhận được học vị thạc sĩ với luận
án La méthode phénoménologique chez Husserl (Phương pháp hiện tượng luận
ở Husserl) Bấy giờ một số tờ báo ở Pháp và ở Đông Dương coi đây là một
sự kiện đặc biệt, biểu hiện của một tài năng thiên phú. Sau đó, Trần Đức
Thảo đăng kí làm luận án tiến sĩ về hiện tượng luận Husserl.

Nhưng chiến tranh thế giới II tràn vào Pháp và Cách mạng tháng Tám thành
công ở Việt Nam. Trần Đức Thảo tích cực tham gia vào những hoạt động
yêu nước ở Pháp và hướng lòng về Việt Nam. Bấy giờ, hiện tượng luận,
trong việc xử lý mối quan hệ giữa hiện tượng và bản thể, đã chia thành
hai nhánh. Một chú trọng hơn đến hiện tượng, cái nghiệm sinh, coi hiện
tượng là có trước và tạo ra bản chất. Hai coi bản chất là cái có trước,
và hiện tượng chỉ là sự hiện thực hoá nó. Nhánh trước dẫn đến chủ nghĩa
hiện sinh. Nhánh sau dẫn đến chủ nghĩa Marx. Nhiều trí thức Pháp với
tinh thần cá nhân đi theo con đường thứ nhất. Trần Đức Thảo, với tư cách
là người Việt Nam, không thể tách cá nhân mình ra khỏi vận mệnh dân
tộc, đã chọn con đường thứ hai: chuyển từ hiện tượng luận sang chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Thế là xảy ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa nhà
triết học Việt Nam với nhà văn, triết gia hiện sinh Pháp J. P. Sartre.
Và tháng 8 năm1961, Trần Đức Thảo cho in cuốn Phénoménologie et
matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện
chứng) ở nhà in Minh Tân tại Paris - Sau đó ông trở về tổ quốc theo
đường dây Paris-London-Praha-Moskva-Bắc Kinh-Tân Trào, bỏ lại sau lưng
cuộc sống sung sướng ở Paris và một tương lai học thuật rạng rỡ.

Ở chiến khu Việt Bắc, Trần Đức Thảo trở thành khách mời của Bộ giáo dục,
đi điều tra nhiều cơ sở trường học và chuẩn bị xây dựng nền giáo dục
mới. Ông là Ủy viên Ban Văn Sử Địa, tiền thân của Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn Quốc gia hiện nay. Sau hoà bình, ông là Phó giám đốc
trường Đại học Sư phạm Văn khoa, rồi chủ nhiệm khoa Sử, giáo sư Lịch sử
triết học, của đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1958, sau vụ “Nhân
văn-Giai phẩm”, ông chuyên nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lê và trở thành chuyên viên của NXB Sự thật, nay là NXB Chính
trị Quốc gia.

Tuy ở Việt Nam trong hoàn cảnh thông tin thiếu, Trần Đức Thảo vẫn tiếp
tục đọc sách báo, trao đổi học thuật với các học giả Pháp. Đặc biệt, ông
vẫn tiếp tục nghiền ngẫm cái điều mà ông đã tự đặt ra cho mình được
viết trong Lời mở đầu của cuốn Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện
chứng năm 1951: tìm trong chủ nghĩa Marx “cách xử lý khả thủ duy nhất
những vấn đề do hiện tượng luận đặt ra”. Những tìm kiếm của ông được
đăng dần trên tạp chí La Pensée (Tư tưởng) từ năm 1966 đến 1970, và năm
1973 được Editions Sociales (Xuất bản xã hội) in dưới tiêu đề Tìm cội
nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Sau khi sách ra đời đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng ở châu Âu, và được in ở Mỹ năm 1981.

Sau đại hội VI, Trần Đức Thảo cho ra đời cuốn Vấn đề con người và chủ
nghĩa “lý luận không có con người” (NXB TP Hồ Chí Minh, 1988). Năm 1992,
Trần Đức Thảo được sang Pháp chữa bệnh và lấy thêm tư liệu để viết công
trình La logicque du présent vivant (Logic của cái hiện tại sống động).
Nhưng tiếc thay, cuốn sách chưa hoàn thành thì ông ngã bệnh và qua đời ở
Paris ngày 19-04-1993. Di hài Trần Đức Thảo được đưa về Hà Nội và chôn ở
nghĩa trang Văn Điển. Có thể nói, cái chết của Trần Đức Thảo đã thức
dậy ở độc giả Việt Nam ham muốn tìm hiểu tác phẩm của ông. Việc xuất bản
các bài giảng của ông dưới tiêu đề Lịch sử tư tưởng trước Mác (NXB Khoa
học Xã hội, 1995) là một bằng chứng. Việc có người dầy công nghiền ngẫm
và dịch cuốn Tìm hiểu cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức là một bằng
chứng khác.

Con người sở dĩ thành người chính là ở chỗ nó có ý thức. Ví dụ nổi tiếng
của Marx về sự khác nhau giữa một con ong khéo léo nhất với một kiến
trúc sư tồi nhất đã nói lên điều đó. Nhưng ý thức bắt nguồn từ đâu và có
từ bao giờ; đó là niềm băn khoăn lớn của nhân loại và cũng là câu hỏi
mà Trần Đức Thảo muốn trả lời bằng cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý
thức. Có hai con đường để nghiên cứu hồi cố sự phát sinh của ý thức:

Nghiên cứu qua cử chỉ và ngôn ngữ ở trẻ nhỏ.

Qua những tư liệu về người tiền sử. Hai phương pháp này bổ trợ cho nhau
rất tốt, và cũng tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà lấy một trong hai
cái làm chủ đạo. Có thể làm được như vậy là vì sự phát sinh tộc loại
luôn luôn lặp lại trong sự phát sinh cá thể. Chính định đề này là sợi
chỉ vừa xuyên suốt vừa bện kết ba nghiên cứu như riêng Trần Đức Thảo
thành một cuốn sách hoàn chỉnh.

Nghiên cứu thứ nhất có tiêu đề Hành động chỉ dẫn như là hình thức gốc
của ý thức khảo về dấu hiệu đầu tiên nhờ đó mà con người vượt qua con
khỉ. Đó là việc người nguyên thuỷ đi săn thì bao giờ cũng nhằm vào con
yếu nhất trong bầy thú và chỉ cho người khác. Đầu tiên chỉ người khác
rồi mới chỉ đến con thú, cử chỉ vòng cung. Cứ như thế, đoàn người ra dấu
cho nhau. Nhưng người chạy sau cùng thì không còn người khác nữa nên
chỉ vào mình và chỉ vào con vật. Dần dần, từ chỉ vòng cung đến chỉ thẳng
đến con vật kèm theo tiếng nói… Như vậy, ý thức đầu tiên là ý thức về
đối tượng và bản thân, và sự phân tích của Trần Đức Thảo soi sáng cho
câu của Marx: “Ý thức là một sản phẩm xã hội nhất thời”. Cuối cùng, ông
đi đến kết luận: Ngôn ngữ là ý thức thực (Marx) bởi vậy thời điểm gốc
của ý thức là ngôn ngữ cử chỉ và lời nói mà chủ thể hướng vào chính nó
sau khi đã hướng vào người khác.
Ngôn ngữ hỗn hợp là nghiên cứu thứ hai của cuốn sách, tìm hiểu sự sinh
thành của ý thức qua những biểu thị ngôn ngữ gắn với sự phát triển của
công cụ người. Con khỉ chỉ biết dùng cơ quan tự nhiên của nó để sử dụng
một dụng cụ, còn con người thì dần dà biết dùng dụng cụ để chế tác ra
công cụ, như việc dùng một hòn đá để ghè một hòn đá khác thành rìu. Muốn
đẽo được thành rìu thì ít nhất trong óc nó phải có hình ảnh của một đối
tượng vắng mặt và một ngôn ngữ biểu thị cái đối tượng vắng mặt đó. Dựa
theo những dữ kiện mà các giai đoạn sản xuất tiền sử cung cấp, cũng như ở
tâm lý học trẻ em, Trần Đức Thảo đã phân tích rất tỉ mỉ sự hình thành ý
thức ở homo faber (người chế tác).

Nghiên cứu thứ ba về Những nguồn gốc của khủng hoảng Ơđíp. Xuất phát từ
sơ đồ của Freud, nhưng Trần Đức Thảo không cho rằng Ơđíp là một nguyên
bản có nguồn gốc từ quan hệ của trẻ em với cha mẹ và cần thiết cho sự
phát triển cái tôi của nó, mà là một dư sinh của những giai đoạn nhất
định trong sự phát sinh loài. Thực ra, trong Vật tổ và cấm kị, Freud
cũng đã cho ơđíp có một nguồn gốc lịch sử, nhưng Trần Đức Thảo phê phán
ông là không đúng khi đồng nhất xã hội người với bầy động vật. Nhà triết
học giải thích mặc cảm Ơđíp bằng bi kịch sinh học của người đàn bà.
Thời đá cũ sơ kì sản phụ tử vong rất nhiều vì xương chậu chưa kịp phát
triển thích hợp khi con người đứng thẳng. Do nạn khan hiếm phụ nữ nên
lớp thanh niên phải nhịn sinh lý đối với những người phụ nữ cùng lớp
tuổi của mình cho đến năm ba mươi tuổi để lấy lớp con cái họ mới mười
bốn mười lăm tuổi. Bởi vậy ham muốn tình dục của một cậu con trai không
phải với chính mẹ đẻ của mfinh, mà với mẹ vợ mà giờ đều gọi tên chung là
“mẹ”. Như vậy, ham muốn này chỉ là loạn luân từ góc độ ngữ nghĩa học.
Cũng từ luận điểm cơ bản này, tác giả giải thích mặc cảm Ơđíp ở bé gái
và những mặc cảm khác như mặc cảm thiến hoạn… tất cả đều bằng lao động
xã hội.

Tóm lại, cả ba nghiên cứu đều khẳng định nguồn gốc của ý thức do ngôn
ngữ và lao động xã hội, khước từ một bản chất người phi lịch sử, khước
từ một Ơđíp kiểu Freud. Người ta thấy, qua tác phẩm này, Trần Đức Thảo
lại làm một bước chuyển nữa: từ chủ nghĩa duy vật biện chứng đến chủ
nghĩa duy vật lịch sử.

Như vậy, hành trình triết học của Trần Đức Thảo đi từ hiện tượng luận
của Husserl đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, rồi lại từ chủ nghĩa duy
vật biện chứng đến chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đấy cũng là con đường của
một số trí thức lớn của Pháp, nhưng về sau họ đều “xét lại” tín điều của
mình như E. Morin, R. Aron… Duy Trần Đức Thảo vẫn trung thành với nó
đến hơi thở cuối cùng. Ông là một nhà triết học trung kiên của chủ nghĩa
Mác-Lê. Sau khi cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức của ông ra
đời, vì có sử dụng sơ đồ của Freud, nên ông rất ngại bị hiểu lầm là
thuộc phái những người chủ trương kết hợp Marx với Freud, một xu hướng
triết học - tâm phân học lớn ở Tây phương với những tên tuổi như E.
Fromm (La Peur de la liberté, 1941, L’Art d’aimer, 1954), H. Marcuse
(Eros et civilisation, 1995, l’Homme unidimentionel, 1964)… Ông đã viết
báo cáo để khẳng định lại vấn đề này. Cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa
“lý luận không có con người” được viết ra để phản bác lại L. Althusser,
nhà triết học Pháp muốn kết hợp Marx với cấu trúc luận. Trần Đức Thảo
muốn bảo vệ sự thuần nhất của triết học Mác-Lê.

Tuy không phải là một triết gia (người sáng lập những triết thuyết, mà
chỉ là một nhà triết học (người nghiên cứu, giảng dạy triết học) nhưng
Trần Đức Thảo là một người suốt đời bận tâm triết học. Trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, dù khó khăn về vật chất hoặc tinh thần, không làm ông thôi
suy tư về nó. Điều đáng quý hơn nữa là ông luôn có ý thức không để mình
lạc hậu so với trình độ tri thức chung của thế giới. Vì thế, người ta
thấy ông lúc nào cũng đọc, đọc rất nhiều từ dân tộc học, nhân học tiền
sử, đến tâm lý học trẻ em, tâm phân học… Nhưng có ý thức là một chuyện,
còn kịp thế giới lại là một chuyện khác, bởi phụ thuộc vào phẩm cách cá
nhân một phần, phần khác vào môi trường thông tin. Bởi vậy, ngày nay đọc
sách của Trần Đức Thảo, bạn đọc có thể thấy đây đó một số tư tưởng đã
cũ, một số những kết luận đã bị tư liệu mới vượt qua, hoặc những lập
luận tuy nhất quán nhưng còn đơn tuyến cứng nhắc… Đó cũng là điều dễ
hiểu, hẳn vì không ai có thể toàn bích, không ai chống lại được thời
gian. Nhưng đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo cho học thuật Việt Nam là
một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện ở một
năng lực tư biện cao (điều hiếm ở Việt Nam) sau đó là khả năng biết đặt
và giải quyết những vấn đề cơ bản của khoa học, phương pháp nghiên cứu
liên ngành… Hình như tất cả những ưu điểm trên đều hội tụ trong Tìm cội
nguồn của ngôn ngữ và ý thức.

(Lời mở đầu cho tác phẩm Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, bản in của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1996)
[You must be registered and logged in to see this link.]

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết

 
  • Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất